Khoá 25 (1968-1972) Quyết Chiến Tất Thắng

Testing ...

Quote ...

Tuesday, July 19, 2022

Sinh Viên Sĩ Quan Đà Lạt - Trần Hoài Việt K28

Có lẽ các bác thì thầm cái chuyện Tân Khoá Sinh nó xưa lắm, xưa đến cả 30 năm, thì hẳn là thế, nhưng phải để tôi kể ra, là vì tôi lục nó ra từ cái ba lô của cái anh chàng nào đó trong truyền thuyết bao nhiêu năm. Các bác biết không nhỉ?
Truyền thuyết kể lại rằng, khi rời khỏi trường Võ Bị, có người còn đang bị đứng nghiêm gặp cằm ở cột cờ Trung đoàn Sinh Viên. Đến lúc phải di tản, những người khoá đàn anh đã đi mất hút nên không có ai ra lịnh cho anh ta thao diễn nghỉ hay tan hàng. Đến bây giờ bóng của anh ta, giờ này vẫn còn đứng với cổ ba ngấn và ba lô tác chiến số 6 ở nơi sân cỏ Trung đoàn năm xưa. Các bác cùng tới đây để tôi dở ba lô cuả anh chàng này ra đọc, rồi mình xem những người ngày xưa nay đã trôi dạt ra sao. 

Những ngày cuối năm, khi mùa đông giá lạnh của Đà lạt bắt đầu thì trường Võ Bị lại có thêm chừng 250 người trai tráng ưu tú, của cả miền Nam được tuyển chọn vào để được huấn luyện thành Sinh Viên Đà Lạt. 
Họ có đến 2 tháng trui luyện trong sự nhọc nhằn để làm hành trang cho suốt 4 năm đại học quân sự. Ngày thứ nhất các anh lớn làm quen với họ, bằng cách cho họ chạy nhảy, bò trong những giao thông hào, sình bùn ướt lạnh và kèm theo những tiếng la hét đến bàng hoàng. Đêm đầu tiên đó, đi ngủ lúc nào, đố mấy ai còn nhớ. Có nhớ chăng là nhớ tiếng kèn dậy sáng. Tiếng kèn mở đầu một ngày kinh khủng khác. 
Năm 1966, một toán Thiếu sinh quân Vũng Tàu ghé thăm trường Đà Lạt, tôi được tháp tùng theo mấy anh lớn lớp 11, 12. Năm ấy tôi vừa mới học đệ ngũ, tuổi chừng 13, 14 thế mà đã quyết định vào Võ Bị từ đó. Nếu giả thử không vào thì có lẽ cả đời ấm ức, không biết Dalat Tân khoá sinh như thế nào. Như thế tôi đã là người độc nhất vào Võ Bị Đà Lạt từ trường Thiếu Sinh Quân năm 1971. 
Điều lạ lùng hi hữu là năm 1971, tôi ở ngay cái phòng mà tôi đã ở vào năm 1966 và nằm ở cùng cái giường . Cái hi hữu rợn người, rợn người như tiếng nói của Trung đội Trưởng 13 Huỳnh Thương. Âm thanh gì, mà cứ như là tiếng của hai thanh nứa cứa kèn kẹt vào nhau. Nghe da gà nổi lên chạy trong người. Trần Tường E28, vừa chạy vừa thì thầm với tôi: 
- Chắc chỉ 1, 2 tuần thôi chứ kéo dài, làm sao mình chịu nổi!

Có Tân khoá sinh nào ngờ đâu, lột xác gì kéo dài cả hai tháng. 

Ông Nảng, ông Nang ông ra đầu đình, ông gặp cô Nỉnh cô Ninh. Cô Nỉnh cô Ninh, cô ra đầu đàng cô gặp ông Nảng ông Nang

Thế rồi:

Khớp con ngựa, ngựa ô ngựa ô ăn khớp, ăn khớp kiệu giang.. là đưa, ý a đưa nàng, đưa nàng, anh đưa nàng dìa dinh. Thuở đó, NT Lý Công Pẩu K26, xếp đặt huấn luyện và văn nghệ cho K28. Một người tài hoa nhưng vận số ngắn ngủi.

“Hồng hà, bao la sông nước, chưá muôn phù sa Hồng hà, bao la nước phù sa.”

“Đất cho ta sống, quê hương ta bồng. Đất cho ta chết, quê hương ta về. Rồi ngày mai nước ta vươn lên màu đất mới, rồi ngày mai nước ta tươm lên hồng môi cười, rồi ngày mai quê hương xanh lên màu sông núi, và ngày mai dân ta quyết sống vì đất này.”

Ba của Phạm Văn Hùng K28, thương tôi và Lưu Đức Sơn lắm. Ông đã thường xuyên thăm hỏi và viết thơ cho cả hai đứa chúng tôi. Sau này, vào năm 1976. Lưu Đức Sơn bị mất trong lúc trốn ra khỏi trại giam Đơn Dương. Phạm Văn Hùng, còn gọi là ông Cố Lội, vì tính Hùng ngang bướng và hay nói 'nộn' chữ L ra chữ N. Khi về Sàigòn, học nhảy dù, một vài chúng tôi đã ghé nhà Hùng. Trong hình ảnh tâm khảm của cả gia đình này, họ đã in hằn một cảm tình tốt đẹp về Võ Bị Đà Lạt. Về sau có đổi đời, cực kỳ hàn vi, miếng cơm chỗ ngủ không có, khi tôi cùng kiệt ghé thăm, họ vẫn đối với những người bạn của con trai mình như những chàng trai Sinh Viên má đỏ, môi cười ngày nào. 

Huấn luyện TKS K28 đợt 1 ở đại đội E: 
- Đỗ Viết Toán, Đại đôi Trưởng 
- Huỳnh Thương, Trung đôi Trưởng trung đội 13 
- Hoàng Công Một, Trung đội Trưởng trung đội 14 
- Nghiêm văn Cẩu, Trung đội Trưởng trung đội 15 
- Ngô Đề Chiến, Đại đội phó 
Không biết có phải là người ta nhìn sang bãi cỏ của nhà hàng xóm thường xanh tươi hơn bên nhà mình không chứ đại đội E rất thấy toàn là Hung thần còn đại đội F sao toàn là những hiền thần. Huấn luyện TKS K28 đợt 1 ở đại đội F: 
- Đinh Văn Quế (SVSQ cán bộ DDT/TKS-DDF) 
- Hà Quốc Hùng (SVSQ cán bộ DDP/TKS-DDF) 
- Đỗ Văn Điền (SVSQ cán bộ TrDT/TKS-TrD16) 
- Ngô Đức Khoa (SVSQ cán bộ TrDT/TKS-TrD17) 
- Lương Vinh (SVSQ cán bộ TrDT/TrD18) 
Còn Huấn luyện TKS K28 đợt 2 đại đội E, thì có: 
- Trần Kiến Võ, Đại đội trưởng 
- Lê Quang Bình, Đại đội phó, 
- Trần Việt Doanh, Trung đội Trưởng trung đội 15 
- Cao Văn Thi

Tay còn tay có, tay vó tay không, sông đời ngũ thập, ai còn ai mất, ai nhớ ai không?

Người huấn luyện mà chúng tôi, khoá 28 đại đội E, kính mến nhất là NT Trần Việt Doanh. Ông ta huấn luyện TKS với cả tấm lòng của người đàn anh.

 
Niccolo Machiavelli trong cuốn Quân Vương có nói: 'Thưa đức ngài, một chính quyền lý tưởng là một chính quyền làm cho dân thương và sợ, nhưng nếu phải chọn lựa giữa thương và sợ thì nên chọn làm cho dân sợ , chính quyền đó cai trị lâu dài hơn... so benefits should be granted little by little, so that they may be better enjoyed.' 
Có lẽ, với khoá 25, chúng tôi có kính và sợ thì đúng nhất, còn thương và kính thì chỉ có dành cho một số NT như Trần Việt Doanh. Vào những ngày cuối tuần, trong những tuần lễ cuối cùng của huấn luyện, chỉ còn Trần Việt Doanh vẫn còn gắn bó, chạy bộ với chúng tôi vòng này sang vòng khác, ngay cả những lúc thực tập tác chiến ban đêm hoặc những ngày cuối tuần. Khi chạy với nhau, đếm mãi thấm mệt, ông ta mới cho chúng tôi bài học rằng, TKS chính là bài học đầu đời về đời lính. Lính nhà nghề phải là những người lính biết tuân lịnh thi hành, còn bản thân những người huấn luyện cũng phải chạy bộ, thức đêm thức khuya để huấn luyện như thể trải qua thêm một mùa TKS thôi. 
Khi đầu mùa hè đỏ lửa năm 1972. Trung Đoàn Sinh Viên Sĩ Quan đã nghe tin ông tử trận ở Chu Pao. Chúng tôi lặng người đứng mặc niệm. Khi có dịp đi ngang ở ranh giới KonTum và Pleiku, Tôi vừa chạy, vừa leo, băng vượt lên đồi cao, như thời kỳ huấn luyện mà nhớ đến ông. Tôi không phải là người mê tín dị đoan, nhưng sao tôi có cảm giác, như có bao nhiêu người quen bên cạnh, cái cảm giác cực kỳ mạnh và rùng rợn như lúc tôi lên Chuà Cọp, ở Khánh Dương. Nơi mà bộ chỉ huy lữ đoàn 6 nhảy dù làm cứ điểm, vì vừa gần đường lộ, vừa có khoảng trống để tiếp vận trực thăng, nhưng không ngờ là điểm tập trung tác xạ tiên liệu của Cộng Sản. Cả tiểu đoàn mất liên lạc từ đó. Tôi thầm hưá sẽ có ngày nào tôi mang rượu và bánh đến thăm thêm một lần nữa. 
Có nhiều người rất hiền hoà, như NT Cao Văn Thi K25 có thế đời mới đỡ khốn khó. Đời sống như những dòng sông chia thành nhiều nhánh mà trí nhớ càng ngày càng mất. Tôi nghe tên nhiều NT khác thân quen lắm, không biết sau này chén tạc chén thù, có còn nhớ đến nhau?

Thuở đó, đâu đã có đào người yêu gì. Sau này đi ra công tác miền Trung mới bắt đầu có vớ va vớ vẩn. Thế mà mấy NT trong đội thiện xạ như NT Hồ Ngọc Hiệp K25, Trưởng khoa Thiện xạ bắt lên coi bia xem có trúng được viên nào không, cứ đổ thừa là chúng tôi đạn bắn gởi đào hết trơn vì có người bắn 3 viên để điều chỉnh tầm tác xạ mà chẳng trúng được một viên. Lờ quờ nhất là Nguyễn Thế Hân, đang nằm tác xạ, cầm ngay khẩu súng đứng lên đưa qua, đưa lại ngó phát gớm. 
- Thưa cán bộ, tại sao súng của 'em' bắn không được. Đây nè ! bóp nó không nổ. 
- ??!! 
Nguyễn Thế Hân xưng 'Em' giọng Bình Định quê ta thế là hôm đó buổi trưa, bị Đại đội trưởng lên bục gầm lên: 
- Đại đội E, thậm chí, có người đã xưng em. 
Lập tức các Trung đội trưởng của 10 đại đội, 30 tiếng cùng gào lên cùng một lượt, nghe sao muốn xón ra quần. 
- Trời ơi, xưng em ! 
- Em nào thế? mang em lên bục cho tôi. 
Em ơi là em. Chết đại đội E đã đành, chết rụm luôn cả khoá 28. Em Nguyễn Thế Hân ơi, chết mấy anh rồi, Thế Hân em ôi ! 
- Bắn súng gởi đào, lại tình tứ xưng em đó, Đại đội trưởng. 

Đại đội E bị phạt tưng bừng ở dốc B52. Trời ơi, 45 độ, còn cách nói khác là độ dốc 100%, cứ phải tấn công lên rồi lăn xuống. Khi lăn rồi, muốn stop cũng không được. Có hết đâu, về lại doanh trại, mệt muốn chết đi không nổi, rồi cũng lại Nguyễn Thế Hân lên tiếng: 
- Thưa cán bộ, lau cầu tiêu xong có được bấm nút không? 
Thế là cả bọn bị bò từ cầu tiêu về phòng, vì câu hỏi lờ quờ. Phía bên này phòng vệ sinh, xưng danh hỏi: 
- Thưa cán bộ, vòi nước bị hư. 
Phía bên kia phòng vệ sinh, lại có người xưng danh hỏi 
- Thưa cán bộ, xin phép được giật nước. 
Sau này mới biết, nếu không vừa chỉ cho cách làm, vừa phạt cả lũ thì chắc Cán bộ bị Tân khoá sinh quay tới, quay lui như dế. 
Chẳng trách được, hồi đó ai cũng sợ Nguyễn Thế Hân mở miệng thế không biết. Cũng từ đó đã sinh ra cái tên 'Phong Càm Ràm', Lương Đình Phong đứng trong hàng cằn nhẳn, cằn nhằn: 
'Giời ạ ! Sao mà có người ngu thế không biết, ngu mà không để đại đội khác ngu bớt, bao nhiêu cái ngu, đại đội mình cứ lấy hết mẻ nó rồi, thì chả trách sao không bị bò miết!'

===> Xem Tiếp