Đầu mùa thu ở Mỹ, khi thời tiết đã thay chiếc áo mùa hè, khoác lên áo mùa
thu, lá đổi màu, trời trở lạnh, nhắc ông Phiên nhớ đến sương mù của Đà
Lạt, đến trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, nằm trên ngọn đồi 1515 ở phía Bắc của
Đà Lạt, những năm tháng ông dạy môn Toán (Giải tích và Thống kê) cho các
Sinh viên Sĩ quan.
Đó không phải là lần đầu tiên ông Phiên đứng trên bục giảng. Ông đã từng dạy
Toán cho học trò Trung học từ lúc đang là sinh viên năm cuối ở khoa Toán
trường Đại học Khoa học.
Ông trở thành thầy dạy Toán từ một tình cờ của đời sống.
Vào đầu thập niên 60 của thế kỷ 20, vào một chiều thứ bảy, ông Phiên, như đa
số các sinh viên thời đó, đi coi ciné ở rạp Rex để giải trí sau một tuần đèn
sách, đi dạy kèm để có thêm thu nhập. Không giống những lần đi coi ciné
khác, lần này ông gặp Thầy giáo cũ dạy ông năm Đệ Nhị (lớp 11) ở trường Quốc
học (Huế) ở ngay trước cửa rạp Rex. Ông Phiên chào Thầy cũ, vẫn cung kính,
lễ độ như thời còn được nghe thầy giảng Việt Sử và Thế giới Sử năm Đệ Nhị B1
trên bục giảng trường Quốc Học.
Đang là Hiệu trưởng Trường Trung học Ngô Quyền ở Biên Hòa, Thầy về Sài gòn
để xin Bộ Giáo dục bổ nhiệm giáo sư Toán về thay một Giáo sư khác được
thuyên chuyển về Sài gòn. Thầy muốn học sinh các lớp Đệ Nhất B (lớp
ban Toán) của Ngô Quyền vẫn giữ được tỷ số đậu cao như truyền thống của ngôi
trường Trung học công lập lớn nhất miền Đông Nam phần.
Thầy nhớ ngay người học cũ tên Phiên trầm tĩnh, chững chạc, chăm học của
sáu năm trước.
- Bây giờ đang đi làm hay đi học?
- Thưa em đang học năm thứ ba khoa Toán ở Khoa học.
- Lấy được mấy chứng chỉ rồi?
- Thưa mới được ba chứng chỉ.
- Có phải đi làm kiếm thêm thu nhập không?
- Thưa em có đi dạy kèm Toán cho một số học sinh đang chuẩn bị thi tú tài.
- Đi dạy kèm Toán lâu chưa?
- Thưa từ năm đầu Khoa học, khi em mới từ Huế vào Sài gòn.
- Thế có muốn về dạy giờ môn Toán ở Ngô Quyền cho một vài lớp ban B không?
oOo
Như thế đó, ông Phiên trở thành một thầy giáo dạy Toán rất tình cờ. Biên Hòa
chỉ cách Sài gòn 30km nên ông Phiên có thể vừa đi học, vừa đi dạy. Và vì
chưa hoàn thành Cử nhân Toán, lại không học Đại học Sư phạm, chuyên đào tạo
thầy cô giáo, nên dù dạy cho các lớp Đệ Nhất (lớp 12) ban Toán, ông Phiên
chỉ là giáo sư dạy giờ. Nhưng điều đó không phải là vấn đề với ông, điều
quan trọng là ông có thể kiếm được một khoản thu nhập tương đối, vừa sống
thoải mái hơn, vừa có thể phụ giúp cho gia đình.
Đó cũng là lần đầu tiên anh sinh viên năm cuối Đại học mua và thắt "cà
vạt" (cravate / tie), vì các nam giáo sư trẻ thời đó phải thắt cravate
để không bị lầm là học trò. Các cô giáo trẻ thì không mặc áo dài trắng
để dễ phân biệt với các nữ sinh lớp 12.
Không tốt nghiệp Đại học sư phạm như các thầy cô giáo khác, còn ở năm cuối
của Đại học Khoa học, mỗi giờ ra chơi ở trường Ngô Quyền dạo đó, ông Phiên
chọn một góc phòng yên tĩnh nhất ở phòng Giáo sư chấm bài của học trò hay
làm bài của chính mình .
Ở những năm 1960s của thế kỷ trước, tỷ số đậu Tú tài của học sinh Trung học
ngay lần đầu chưa đến 20% nên trình độ của "các cô cậu Tú" thời đó
rất vững chắc và đầy đủ "chất lượng". Một học sinh đậu Tú tài 2
ban B hạng Bình thứ (tương đương với C plus ở Mỹ) có thể dạy giờ môn Toán
cho các học sinh lớp 8, lớp 9 ở các trường Trung học tư. So sánh với số
lượng và chất lượng của các cô cậu tốt nghiệp Trung học của đầu thế kỷ
21 ở Việt Nam thì đúng là "cái học ngày nay đã hỏng rồi" (Tú
Xương).
Thời đó, không có "chỉ tiêu", không có "tổng kết thi đua",
nhưng chất lượng của nền giáo dục nhân bản của VNCH rất cao dù đất nước đang
có chiến tranh. Học trò thì cố hết sức học để báo đáp công ơn sinh thành
dưỡng dục của cha mẹ. Thầy cô thì hết lòng dạy dỗ vì học trò chăm học, có
tinh thần "tôn sư trọng đạo", và canh cánh bên lòng tâm niệm mình
đang góp phần giúp cho tương lai đất nước phát triển hơn.
Trong bối cảnh đó, cả ông Thầy trẻ còn “nặng nợ sách đèn”, và
các cô cậu Tú tương lai đã có những giờ Hình học Giải tích đầy sinh động, để
lại nhiều ấn tượng tốt đẹp mang theo suốt cuộc đời cho cả Thầy lẫn trò.
Cuối niên khóa đầu tiên hành nghề "gõ đầu trẻ" của ông Phiên, hơn hai
phần ba số học trò của ông ở lớp Đệ Nhất ban B (12B) đã "vượt vũ môn"
thành công ở kỳ thi Tú tài II lần đầu. Vài người trong số họ được đi du học
ở Mỹ, ở Nhật với học bổng của Chính phủ. Một vài người khác vào Đại học, ra
trường và được giữ lại giảng dạy ở trường Đại học Kiến trúc Sài gòn. Một số
theo võ nghiệp và trở thành những sĩ quan văn võ song toàn của QLVNCH. Ba nữ
sinh duy nhất của lớp Đệ Nhất B2 nối gót ông Phiên trở thành giáo sư
Toán, trở về trường xưa dạy lại cho các lớp đàn em.
|
Thầy Trần Phiên ở Sân trường Trung học Ngô Quyền Biên Hòa năm
1963
|
Tốt nghiệp cử nhân Toán ở Đại học Khoa học, ông Phiên vẫn tiếp tục dạy ở
trường Trung học Ngô Quyền Biên Hòa chờ định hướng cho sự nghiệp của mình.
Nhưng chiến tranh trở nên khốc liệt hơn, quân đội cần rất nhiều nhân lực để
bổ sung cho những người đã nằm xuống cho tự do của miền Nam, lệnh Tổng động
viên ban hành. Như hầu hết đàn ông, thanh niên thời đó, ông Phiên vào Quân
trường Thủ Đức. Là một người miền Trung "đất cày lên sỏi đá", ông
không gặp trở ngại khi phải khép mình vào kỷ luật sắt của quân đội, thích
nghi dễ dàng với những bữa ăn đạm bạc của quân trường. Cứ nghĩ là hết chín
tuần huấn luyện quân sự, ông Phiên sẽ được trở về với bục giảng, tiếp tục
ước mơ đã định hướng của mình.
Đúng lúc đó, trường Võ Bị Đà Lạt (QLVNCH) bắt đầu mở chương trình đào tạo sĩ
quan cả quân sự lẫn văn hóa với học trình bốn năm theo khuôn mẫu của trưởng
Võ Bị West Point (nằm dọc theo phía Tây của bờ sông Hudson ở New York, Hoa
Kỳ). Trường rất cần các giảng viên văn hóa có trình độ Đại học. Gần đến ngày
mãn khóa, ông Phiên cùng một số các bạn cùng khóa - đã tốt nghiệp Đại học về
các ngành Khoa học tự nhiên (Toán, Vật Lý, Hóa học, Công chánh, Điện…) -
được bổ nhiệm về dạy văn hóa ở trường Võ Bị Đà Lạt.
Rời quân trường Thủ Đức, ông Phiên bắt đầu một chương mới của đời mình ở núi
đồi Đà Lạt lúc đó hãy còn thanh khiết. Vẫn dạy môn Giải tích và Toán
Thống kê, nhưng học trò của ông lần này không phải là các cô cậu học trò vẫn
còn nét ngây thơ với áo trắng tinh khôi, mà là các thanh niên trưởng thành
hơn, ngổ ngáo hơn với đồng phục treillis của sinh viên sĩ quan.
Cũng học văn hóa chín tháng mỗi năm như học trò, nhưng ba tháng hè của các
sinh viên sĩ quan trường Võ bị Quốc gia là thời gian học Quân sự. Họ được
huấn luyện đầy đủ quân phong, quân kỷ, các kỹ năng chiến đấu, thoát hiểm, và
sinh tồn.
Sách vở có, nhưng chưa đầy đủ, ông Phiên cùng các đồng nghiệp của mình phải
vừa dạy, vừa soạn tài liệu, soạn sách để phù hợp với nhu cầu của trường Võ
bị giữa một đất nước đang chiến tranh.
Chưa có đủ số lượng giảng viên cần thiết, trường Võ Bị Đà Lạt phải mời thêm
một số Giảng viên dân sự bên ngoài vào dạy. Các giảng viên này thường bay
đến Đà Lạt và về Sài gòn cùng ngày bằng máy bay Quân sự C130. Các giảng viên
là lính như ông Phiên thì phải theo kỷ luật của quân đội, ở lại trường 24/7,
trực thuộc khối Văn Hóa Vụ của trường, đảm trách dạy tất cả các môn văn hóa
(Toán, Khoa học, Công chánh, Điện, Cơ khí, Anh văn, Kỹ thuật Quân Sự,
và Khoa học xã hội). Họ ở trong một khu doanh trại của các giảng viên văn
hóa, trong khuôn viên trường Võ Bị Đà Lạt, mỗi phòng hai người.
Cũng như mọi quân nhân khác, họ thay phiên nhau được nghỉ phép hai tuần mỗi
năm. Thỉnh thoảng, có vợ con ai đó đến thăm, những người cùng phòng tế nhị
ôm gối sang phòng trực ngủ nhờ, giữ riêng tư cho người được gia đình đến
thăm.
Các giảng viên cũng cùng ăn ở câu lạc bộ như tất cả các sinh viên sĩ quan.
Điều khác biệt là họ phải đóng tiền, không được ăn miễn phí như các sinh
viên sĩ quan. Lệ phí ăn uống của giảng viên được trừ vào lương mỗi tháng. Để
giữ khoảng cách thầy trò, tầng một rộng hơn là phòng ăn của sinh viên sĩ
quan, tầng hai là phòng ăn của các giảng viên Khối Văn Hóa Vụ, và các sĩ
quan chỉ huy của trường. Bất cứ một đoàn thể nào, dù bình đẳng đến đâu, vẫn
phải duy trì khoảng cách, duy trì kỷ luật để dễ làm việc. Ở một quân
trường huấn luyện, đào tạo các Sĩ quan tương lai, những người sẽ duy trì sức
mạnh quân đội, bảo vệ tự do cho miền Nam thì khoảng cách đó lại càng rõ ràng
hơn.
Theo đúng khuôn mẫu của West Point, tất cả giảng viên thuộc khối Văn hóa vụ
khi đứng trên bục giảng phải mặc quân phục. Điều khác biệt duy nhất là
họ không đeo lon, vì phần lớn các giảng viên giai đoạn trường mới thành lập
chỉ mới là Thiếu úy, một trong hai cấp bậc nhỏ nhất của Sĩ quan Quân Lực
VNCH. Về cấp bậc, các giảng viên còn mang cấp thấp hơn nhiều sĩ quan khác
trong trường, nên các giảng viên không mang lon để giữ khoảng cách Thầy trò.
Hệ thống giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa, ngay cả ở quân trường, vẫn có bóng
dáng của nền giáo dục nhân bản, và tinh thần tôn sư trọng đạo.
Giống như Học viện Quân sự West Point ở Mỹ, các sinh viên sĩ quan trường Võ
Bị Đà Lạt từ khóa 22 trở về sau được đào tạo theo chương trình bốn năm như
các trường Đại học khác. Họ học văn hóa buổi sáng, buổi chiều tự học, làm
bài tập, học ở thư viện. Khác với sinh viên dân sự, mùa hè họ không được
nghỉ hè, mà học Quân sự, thực tập ở các thao trường. Họ được các sinh viên
sĩ quan các khóa đàn anh dạy các kỹ năng tác chiến, đối phó với hiểm nguy để
sống còn.
Trong ba tháng các sinh viên sĩ quan học quân sự, không phải dạy học và chấm
bài, các giảng viên khối Văn hóa vụ phải cùng nhau soạn thảo, tu bổ các giáo
trình giảng dạy trong những ngày trường Võ bị Đà Lạt bắt đầu chương trình
đào tạo bốn năm. Một số giáo trình được dịch từ các sách vở được gởi qua từ
West Point, một số giáo trình được soạn theo các kiến thức đương thời. Ông
Phiên được phân công cùng một người đồng nghiệp khác, biên soạn giáo trình,
sách cho bộ môn Toán Thống kê (Statistic Math) . Ông mang hết kiến thức của
mình đã học được trong những năm học Toán với Giáo Sư Đặng Đình Áng
(1926-2020) ở Đại học Khoa học để có thể soạn ra một giáo trình có hiệu quả
tốt nhất, có thể phục vụ tốt nhất cho hiệu quả của cuộc chiến tranh chống
lại sự xâm lược của miền Bắc, bảo vệ tự do cho hơn hai mươi triệu dân miền
Nam. Công việc đang dở dang, sắp hoàn thành thì ông được gởi đi học Anh Văn
mười tám tháng ở Sài gòn - mỗi ngày bốn tiếng - để chuẩn bị đi học chương
trình Thạc sĩ ở Mỹ. Là cả một ngạc nhiên lớn cho ông Phiên (một ngạc nhiên
hạnh phúc vì ông được trở lại thời đèn sách bình yên) vì ông không quen biết
rộng, cũng chưa có ý định xin đi du học sau chỉ mới hơn một năm dạy Toán cho
các sinh viên Sĩ quan các khóa 22B, 23, và 24 ở trường Võ bị Đà lạt.
Đó là thời gian an nhàn nhất của ông trong suốt quãng đời binh nghiệp. Khóa
học chấm dứt, cũng như những Sĩ quan cùng khóa học, Trung úy Phiên đến Cục
Quân Nhu ở Sài gòn nhận hai bộ lễ phục của quân đội, cùng một số quân phục
mới để chuẩn bị đi du học về Computer Science ở Mỹ sau khi đã được khám sức
khỏe tổng quát ở một văn phòng Bác sĩ được chỉ định bởi văn phòng của
USAID ở Sài gòn. USAID (United States Agency for International
Development), là một tổ chức trực thuộc Chính quyền liên bang đặc trách
chương trình giúp đỡ tất cả các nước đồng minh, và các nước kém phát triển
về tất cả mọi mặt, đặc biệt là đào tạo chuyên viên khoa học kỹ thuật.
USAID còn giúp các Sĩ quan QLVNCH gởi hồ sơ xin học các chương trình sau Đại
học ở các trường Đại học bên Mỹ tùy theo chuyên môn của họ.
Cuộc đời ông Phiên cũng rẻ qua một trang mới, cách xa núi đồi Đà Lạt, cách
xa quê hương tội nghiệp đang bị tàn phá vì chiến tranh gần như mỗi ngày.
Cùng với hai mươi chín người khác, Trung úy Phiên rời Việt Nam với trọng
trách phải học được những kiến thức về khoa học kỹ thuật đương thời để cùng
góp tay với các quân nhân đang chiến đấu ở tuyến đầu bảo vệ tự do cho hai
mươi triệu người dân miền Nam.
Xong thủ tục nhập cảnh ở phi trường Quốc tế San Francisco, ba mươi người
Việt Nam mảnh mai nhưng vác cả một trọng trách lớn trên vai, lên một chuyến
bay khác bay xuyên chiều dài rộng lớn, từ Tây sang Đông Hoa kỳ để đến
Washington DC. Ở đó, họ được USAID hướng dẫn trong hai tháng rất chi tiết về
văn hóa Mỹ (American cultural orientation) và đời sống sinh viên để giúp họ
hội nhập và đạt được kết quả cao nhất trong thời gian du học.
Rồi họ về các trường Đại học ở nhiều tiểu bang khác nhau theo ngành học của
mình. Cùng với bốn người bạn khác, Trung úy Phiên bay về miền Nam Hoa kỷ để
theo học chương trình Cao học về Computer Science tại University of Texas ở
Austin, được gọi ngắn gọn là UT Austin.
Ông Phiên trở lại đời sống sinh viên ở tuổi ngoài 30, không gặp bất cứ trở
ngại nào, vì đã được chuẩn bị rất đầy đủ tổng cộng hai mươi tháng,từ Sài gòn
đến Washington DC. cả về ngôn ngữ lẫn văn hóa Mỹ. Kiến thức vững vàng về
Toán tích lũy được trong bốn năm học Toán ở Đại học Khoa học và bốn năm dạy
Toán từ Trung học Ngô Quyền, qua Võ Bị Đà Lạt giúp ông suy luận chặt chẽ hơn
khi học một môn học hoàn toàn mới (Computer Science) với những ngôn ngữ
riêng của máy điện toán đầu thập niên 1970s .
UT Austin là trường Đại học công lập dân sự ở Texas nên ông Phiên cùng
bốn người bạn không phải mặc quân phục khi đi học. Họ hòa lẫn vào hơn bốn
mươi mốt ngàn sinh viên bản xứ ở UT Austin, vào thời điểm đầu thập niên
1970s, trong quần jeans, áo chemise, với backpack trên vai. Điều khác biệt
và cũng là quyền lợi các Sĩ quan QLVNCH đi du học là họ được mua nhu yếu
phẩm miễn thuế trong PX (Post Exchange/ Quân Tiếp Vụ) Mỹ ở địa phương.
Ông Phiên và một người khác được chỉ định học ngành Computer Science, tập
trung vào việc viết program ở UT Austin (University of Texas in
Austin).
|
Thẻ bấm lỗ - Cách viết Computer Program được dùng cho đến cuối thập
niên 1970
|
Trung úy Phiên cùng bạn không chỉ học ở giảng đường, mà còn tự học ở
Computer Lab. Họ còn tập viết những program đầu tiên trong cafeteria ở
trường. Ngoài những giờ học ở lớp, họ luôn có mặt ở Lab, thư viện, và luôn
luôn là những sinh viên cuối cùng rời những nơi này trước giờ đóng cửa vài
phút.
Thời điểm đó, đang ở mùa hè đỏ lửa 1972, bà tài tử Jane Fonda (lúc đó đã 35
tuổi) ngờ nghệch qua thăm Hà Nội, trở về kích động những cuộc biểu tình phản
chiến ở các trường Đại học bên Mỹ, mà "hang ổ" lớn nhất ở UC
Berkeley, miền Bắc California.
Đó là một sự quay lưng - vô cảm và phản bội - với xương máu của hơn
năm mươi tám ngàn lính Mỹ tham chiến và tử trận ở Việt Nam cho cuộc chiến
bảo vệ tự do. Vì vậy, Jane Fonda được người Mỹ gọi là HaNoi Jane. Cái
tên này gắn liền với bà đến cuối đời như một vết nhơ tai tiếng lưu lại ngàn
đời, mặc dù bà đã chính thức xin lỗi nhiều lần:
“I would like to say something, not just to Vietnam veterans in New
England, but to men who were in Vietnam, who I hurt, or whose pain I
caused to deepen because of things that I said or did. It hurt so many
soldiers. It galvanized such hostility. It was the most horrible thing I
could possibly have done. It was just thoughtless ...
It hurts me and it will go to my grave that I made a huge, huge mistake …”
Ông Phiên và người bạn của ông theo dõi thời sự trên các tờ báo Mỹ trong thư
viện, trên Tivi. Sinh viên của nhiều trường Đại học bị kích động sau
chuyến về thăm VN của HaNoi Jane, càng biểu tình chống chiến tranh VN, ông
Phiên càng lao vào học, để có thể viết program cho computer khi về nước, để
ghi lại một ấn tượng tốt đẹp cho người bản xứ về người Việt Nam. Ông cùng
với một vài sinh viên VN khác ở UT Austin viết lên quan điểm của mình trên
bản tin của Hội Sinh viên đặt ở Alumni Campus. Ở một đất nước tự do, mỗi
người đều có quyền nói lên quan điểm chính trị của mình. Những sinh viên
VN muốn cho các sinh viên Mỹ và nhiều chủng tộc khác hiểu miền
Nam chỉ chiến đấu để bảo vệ tự do, quân đội VNCH chỉ tự vệ, không vượt
Trường Sơn, không vượt vĩ tuyến 17 để xâm lấn miền Nam như quân đội của miền
Bắc.
Rất tiếc, Việt Nam không có một người lãnh đạo vừa giỏi vừa có tấm lòng như
Tổng Thống Abraham Lincoln (1809-1865) để có thể thống nhất đất nước mà
không có các trại cải tạo tập trung, không có chủ nghĩa lý lịch, không có
cải tạo tư sản, không có tịch thu và đốt sách, không có tù đày dành cho một
số Nhà Văn, Nhà Báo của VNCH…
Cả ông Phiên và bạn đều cắm cúi học, không nghĩ đến chuyện đi chơi, vì họ
biết bên kia địa cầu, bạn bè của họ, các thanh niên thế hệ đàn em của họ đã
và đang hy sinh xương máu trên chiến trường mỗi ngày để đánh đổi những năm
tháng tự do quý báu của miền Nam Việt Nam. Họ được cử đi học thì phải học
hết sức để còn về trở về tiếp sức với mọi người, để xứng đáng với sự hy sinh
của những người đã "vị quốc vong thân".
Giữa cả ngàn sinh viên tốt nghiệp năm đó ở UT Austin, hai người học trò Việt
Nam để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng các giáo sư người bản xứ. Họ hoàn
thành Cao học về Computer Science loại giỏi, được giữ lại trường làm việc,
nhưng cả hai cùng chọn quay về "vùng lửa đạn" vì ở đó họ còn có gia
đình, còn có bổn phận với quê hương, còn có cam kết phải viết được program
cho hai cái computer đầu tiên ở Việt Nam đang chờ đợi họ ở Trường Võ Bị Quốc
Gia ở Đà Lạt. Hơn nữa, với lương tâm, họ không muốn lỗi đạo với những người
lính trẻ đã nằm xuống để họ được thênh thang du học ở xứ người.
Hoàn thành khoá học, Trung úy Phiên về trình diện văn phòng USAID ở
Washington DC. Vì là quân nhân, họ được USAID cấp giấy giới thiệu (hơn nửa
thế kỷ trước, ngay cả ở Mỹ, người ta vẫn còn cầm giấy giới thiệu) qua
Pentagon thuộc Bộ Quốc phòng nằm ở bên kia sông Potomac thuộc tiểu bang
Virginia. Pentagon đã sắp xếp máy bay quân sự cho những sĩ quan Việt Nam -
vừa được Mỹ đào tạo chương trình Thạc sĩ về nhiều ngành Khoa học - trở
về quê nhà.
Lúc đó, vào đầu mùa Xuân ở Mỹ, hoa anh đào nở hồng cả một không gian lớn,
chạy dọc theo sông Potomac với rất nhiều du khách từ khắp nước Mỹ đến thăm.
Cuộc sống đầy màu hồng như màu hoa đào, hạnh phúc và bình an. Ông Phiên thầm
buồn cho đất nước VN của mình đang chìm trong màu xám của chiến tranh gần
hai mươi năm, chưa có cơ hội để xây dựng và tái thiết.
Về đến Sài gòn, chỉ được nghỉ ngơi đúng ba ngày, ông Phiên về lại Đà Lạt,
trình diện trường Võ bị để tiếp tục dạy Toán Thống Kê và Giải tích cho các
sinh viên sĩ quan khóa 25, và 26.
Tưởng là sẽ tiếp tục ở ngọn đồi 1515 với khí hậu se lạnh của Đà Lạt trong vị
trí giảng dạy và biên soạn giáo trình môn Toán. Nhưng một buổi sáng, Trung
úy Phiên được gọi lên Văn phòng Chỉ huy trưởng. Thiếu tướng Chỉ huy trưởng
Trường Võ bị cho ông biết Phủ Tổng Thống vừa gởi công điện khẩn yêu cầu:
"Trung úy Trần Phiên về trình diện Phủ Tổng thống gấp để nhận nhiệm vụ
mới. Mọi sự lưu giữ không được chấp thuận. Tình trạng hành chánh sẽ được
điều chỉnh bằng nghị định sau."
Nhận sự vụ lệnh trình diện Chánh Văn phòng Phủ Tổng Thống vào sáng ngày hôm
sau, nên quay về phòng mình, ông Phiên thu xếp, nhét vội quần áo vào cái sac
marin màu olive của quân đội, xuống văn phòng câu lạc bộ thanh toán tiền ăn
từ đầu tháng đến hôm đó.
Rồi không kịp từ giả bạn bè, ông đi theo máy bay C130 chở các giảng viên dân
sự về lại Sài gòn, trong lòng nhiều câu hỏi ngổn ngang. Kỷ luật quân đội là
vậy: gọi là phải đi, ngay khi có thể (ASAP); làm trước, thắc mắc khiếu nại
sau.
Sáng hôm sau, trong quân phục chỉnh tề, trình diện Phủ Tổng Thống, ông Phiên
mới biết cuộc đời mình lại chuyển qua một trang mới.
Những Sĩ quan VNCH du học về với bằng Thạc sĩ về Khoa học ở Mỹ được đãi ngộ
chu đáo mặc dù họ không hề quen biết ai, không có "connection", không
phải là "con ông cháu cha", lại càng không có chuyện hối lộ,
đút lót để được tiến thân, để "xa nơi lửa đạn, về chốn bình yên". Đơn
giản là vì họ đã được dạy Công dân giáo dục từ lớp một đến lớp 11, hiểu là
làm người thì phải cố gắng đền đáp công ơn của cha mẹ, thầy cô, của đất
nước, và sống xứng đáng với sự hy sinh của những người nằm xuống cho họ đứng
lên ở miền Nam tự do.
Thời điểm đó, Phủ Tổng Thống đang tiến hành cuộc cách mạng hành chánh, cải
tổ các ban ngành, cái tiến thủ tục hành chánh cho gọn nhẹ và hữu hiệu hơn.
Việc cải tổ phát sinh nhu cầu mới: một hệ thống điện toán quản trị nhân viên
cho Phủ Tổng ủy Công vụ.
(Phủ Tổng Ủy Công Vụ là một đơn vị mới trong cuộc cách mạng hành chánh của
VNCH đầu thập niên 70, sát nhập bốn đơn vị cũ gồm Tổng Nha Công Vụ, Trường
Quốc gia Hành chánh, Trung tâm huấn luyện Công chức ở Vũng Tàu, và Tổng
nha An Ninh Hành chánh)
|
Học viện Quốc Gia Hành Chánh ( 1963-1975)
|
Ông Phiên được cử tới Phủ Tổng Ủy Công Vụ tìm hiểu chi tiết về cách quản trị
quân nhân, công chức của VNCH hiện hành. Ông cũng tìm hiểu về yêu cầu cần có
của cuộc cải tổ hệ thống hành chánh với hiệu quả cao nhất, mà không cần phải
tốn nhiều công sức qua sự giúp đỡ của hệ thống điện toán. Ông được cấp phép
có thể sử dụng hệ thống điện toán ở Phủ Thủ Tướng, để để nghiên cứu thiết hệ
thống quản trị nhân viên cho Phủ Tổng Ủy Công Vụ.
Program mới thường được viết ra bởi cả một team, nhưng ông Phiên đã phải một
mình "ta nhìn ta trên vách" để mày mò viết program cho computer lưu
giữ toàn bộ data, từ những điều đơn giản đến những điều phức tạp.
"Vạn sự khởi đầu nan", công việc bắt đầu từ số không, ông Phiên mang
hết suy luận của một người học và dạy Toán, kết hợp với kiến thức về
Programing ông vừa học được từ UT Austin, để "chạy program".
Nhiều lần viết, tự sửa chữa, xóa đi, viết lại, cuối cùng ông cũng vận hành
được hệ thống điện toán như yêu cầu của cấp trên.
|
Hệ thống Computer ở thập niên 1970s
|
Đó là những ngày cuối năm 1974, đầu năm 1975. Máy điện toán của Phủ Tổng Ủy
Công Vụ sắp vận hành thì vận nước xoay chiều, biến cố 30 tháng 4 năm 1975
cuốn trôi tự do, hoài bão của hơn hai mươi triệu người dân miền Nam,
cuốn trôi luôn công trình tim óc của ông Phiên. Ông thấy câu ca dao
"Gió đưa cây cải về trời, rau răm ở lại chịu đời đắng cay" như được
viết riêng cho mình.
Mà không chỉ đắng cay, còn có tủi nhục đi kèm khi Trung úy Phiên cùng với
gần nửa triệu sĩ quan, và công chức của Việt Nam Cộng Hòa đi trình diện
"học tập cải tạo một tháng" theo thông báo của
“Ủy ban Quân quản Thành phố” vào tháng 6 năm 1975, chưa đến hai tháng
sau khi Sài gòn mất tên. Một tháng đó, tùy chức vụ, cấp bậc từng
người, đã kéo dài từ hai đến mười bảy năm!!!
Điều đau đớn nhất là họ bị những người không được học hành đến nơi đến chốn
"lên lớp", mạt sát, và đôi khi đánh đập họ. Mãi cho đến bây giờ, bao
nhiêu năm trôi qua, thỉnh thoảng, nhiều người tù cải tạo năm xưa vẫn nằm mơ
thấy lại thời đắng cay, tủi nhục năm nào. Nhiều cựu "tù cải tạo" đã
tha thứ cho những người hành hạ mình, bạc đãi vợ mình, cắt ngang đường đi
học của con mình, nhưng quên thì chẳng bao giờ quên được!
Là Trung úy biệt phái qua Phủ Tổng Ủy Công Vụ, ông Phiên bị xếp vào"ngụy bình phương", vừa là "ngụy quân", vừa là "ngụy quyền". Cho nên gần mười
năm đi làm dưới thời VNCH, dù chỉ dạy Toán, nghiên cứu, và được gởi đi tu
nghiệp, ông vẫn bị chính quyền mới xếp vào
"thành phần có nợ máu với nhân dân".
Ông trải qua sáu năm trong các trại cải tạo tập trung từ Trảng Lớn, qua Long
Khánh, chuyển đến Thành Ông Năm, rồi Bù Gia Mập, cuối cùng là trại Xuân Lộc.
Mỉa mai nhất là năm 1980, ông Phiên và các cựu Sĩ quan QLVNCH đã qua
đến năm thứ năm trong trại tù, sinh lực của tuổi 30, 40 gần như cạn kiệt với
lao động khổ sai. Với khẩu phần ăn uống không đủ lấp đầy một phần tư bao tử,
họ trở thành những người tù còm cõi, ốm yếu trong một trại tù có tên là Bù
Gia Mập. Không có gì khôi hài hơn, nhiều năm trôi qua nhiều người vẫn cười
ra nước mắt khi nhớ lại thân hình ỐM đói của mình và đồng đội trong
trại Bù gia MẬP.
Ở những nơi đó, cựu giáo sư Toán Trần Phiên vẫn thấy được tình nghĩa Thầy trò của nền
giáo dục nhân bản còn sót lại. Hầu như mỗi ngày đi lao động về, ông Phiên
thấy một lon guigoz canh "cải thiện" đặt trên đầu chỗ nằm của mình. Canh
chẳng có gì, chỉ có nước sôi thêm vào một ít muối hột, lác đác vài cọng rau
xanh bầm dập: khi thì rau đắng, lúc thì bạc hà (không có cà chua,
không có cá lóc, cũng không có đậu bắp, giá đỗ…), hôm thì rau muống hay rau
lang ... Chỉ có vậy, không còn gì khác, nhưng đó là cả một tấm lòng, trong
hoàn cảnh tù đày, từ những cựu sĩ quan QLVNCH đã từng là học trò của "thầy
Phiên" ở Trung học Ngô Quyền Biên Hòa, hay ở trường Võ Bị Đà Lạt . Vậy mà với
ông Phiên, đó là món canh ngon nhất trong đời, nhất là trong hoàn cảnh "thầy
và trò cùng học chung một lớp" trong trường "Đại học máu" (Hồi ký về lao tù cộng sản của tác giả Hà Thúc Sinh)
Gần sáu năm sống đời "tù không tội", ông Phiên nghiệm ra một điều: trong bóng
tối của khốn cùng, nhân cách và tình nghĩa càng tỏa sáng. Một trong
những điểm sáng đó là tình cảm của "ngụy dân" dành cho "ngụy quân", "ngụy
quyền".
Một lần đang vác những bó cây nặng gần gấp đôi trọng lượng của mình ở một
góc rừng Xuân Lộc, một bà cụ đầu tóc bạc phơ, thân hình gầy yếu, đến gần đưa
cho ông mấy củ khoai lang:
- Ăn đi con. cho đỡ đói. Rồi cũng phải có ngày về, Trời Phật không bỏ các con
đâu.
Đó chỉ là những củ khoai lang nhỏ xíu (còm cõi như cả người cho lẫn người
nhận) nhưng với một người "tù cải tạo" (phải lao động khổ sai, thường xuyên
"đói đến vàng mắt") thì nó quý báu và có tác dụng còn hơn sâm hay yến. Cũng như
những lon canh rau mặn chát từ học trò cũ, chỉ lác đác vài cọng rau xanh
trong nước muối, nhưng đó là món ăn ngon nhất đi theo ông Phiên cả cuộc đời.
Sài gòn bị mất tên, mọi thứ đều mất, nhưng tình nghĩa và hệ quả của nền giáo
dục nhân bản vẫn còn, giúp những người tù nhẫn nhục "nín thở qua sông"
với hy vọng vào một ngày mai tươi sáng hơn.
Một lần duy nhất, ở năm thứ ba sống đời "tù không tội", thân mẫu của ông Phiên
được con dâu đưa lên trại tù Long Khánh thăm con. Bà cụ gần như mù lòa
(vì tuổi tác, vì khóc nhiều khi con trai vẫn chịu cảnh tù đày, không biết
ngày về), thăm và nhìn con bằng xúc giác thay vì thị giác. Bàn tay của người
Mẹ đưa từ mặt, qua vai, đến tay chân ông Phiên, nước mắt lăn dài, bà lẩm bẩm:
- Sao ốm quá vậy con? Gắng giữ sức khỏe để còn có ngày về với Mẹ, với gia
đình.
Ông Phiên nuốt nước mắt vào lòng. Đó cũng là lần cuối, ông được gặp mẹ. Gần
một năm sau, bà cụ qua đời, ông Phiên chỉ biết tin vài tháng sau đó, qua thư
nhà gởi lên trại tù. Dù rất thương cha mẹ, vì phải chịu cảnh tù đày, hầu hết
cựu Sĩ quan QLVNCH không thể về để nhìn cha mẹ, báo hiếu lần cuối, và chịu
tang các đấng sinh thành. Nỗi đau đó chắc chắn đi theo họ đến cuối cuộc đời.
Cũng may là ông Phiên không bị lưu đày ở các "trại cải tạo" trong rừng thiêng
nước độc ở miền Bắc như các sĩ quan cấp tướng, cấp tá và một số ít các sĩ
quan cấp úy khác. Cùng một cách đối xử, cùng một chính sách, nhưng ở ngoài
Bắc thời tiết khắc nghiệt hơn trong Nam. Hơn nữa, một số gia đình không đủ
điều kiện kinh tế đi thăm nuôi thân nhân ở các trại tù miền Bắc. Nên hầu hết
các cựu Sĩ quan QLVNCH đã thiệt mạng trong các trại cải tạo lên đến cả trăm
ngàn người (theo ước tính của tổ chức ân xá quốc tế/ Amnesty
International ở Luân Đôn), đều ở các trại tù miền Bắc. Nhiều người
mãi mãi nằm lại ở một góc rừng heo hút ở miền Bắc. Nỗi đau đó vẫn còn âm ỉ
trong lòng thế hệ thứ hai, thứ ba…
Đầu năm 1981, "cải tạo viên" Trần Phiên được phóng thích. Từ nhà tù lớn ra
nhà tù nhỏ, ông tìm đường vượt biển. May mắn, ông cùng vợ và con đến được
trại tỵ nạn ba tháng sau ngày rời trại cải tạo. Gia đình ông Phiên chỉ phải ở
trại tỵ nạn Pulau Bidong - Malaysia - vỏn vẹn ba tháng. Như một giấc mơ, chỉ
nửa năm sau ngày được "phóng thích", ông Phiên lại được đặt chân đến Mỹ lần thứ
hai. Lần này, đau xót hơn, là một người lưu vong, ngày về vô định.
Một trang đời mới mở ra…
Từ nơi định cư đầu tiên, ở San Diego, miền Nam California, một ngày mùa hè,
ngoài dự tưởng, người Việt Nam đầu tiên đến thăm ông Phiên là Văn, người học
trò giỏi Toán nhất lớp Đệ Nhất B2 ở trường Trung học Ngô Quyền Biên Hòa năm
nào. Thời đó, năm 1981, mười năm trước ngày Internet phổ cập với cái tên
World Wide Web (www), nhưng bằng một cách nào đó, Văn biết được ông vừa đến
Mỹ. Anh ta xuất hiện ngay trước cửa căn apartment của ông, với đầy đủ lễ độ và ân
cần như mười bốn năm trước khi anh còn ngồi nghe ông thầy trẻ giảng Giải
tích trên bục giảng năm cuối Trung học. Khi người ta quý nhau đủ để tìm gặp
nhau, khi vẫn còn duyên hạnh ngộ thì sẽ có cách tìm thấy nhau dù ở bất cứ
chân trời góc biển nào.
Đậu tú tài ban B hạng ưu (tương đương grade A ở Mỹ) năm 1967, Văn được
học bổng toàn phần du học ở Mỹ. Với chính sách luôn luôn thu dụng nhân tài
của Mỹ, sức học và sự chuyên cần của Văn giúp anh tìm được công việc, và
thành công dân Mỹ chỉ vài năm sau khi tốt nghiệp Tiến sĩ ở Mỹ. Ngày xưa, ở
quê nhà, Thầy Phiên dạy Văn môn Giải tích, Tân toán học. Mười lăm năm sau, ở
quê người, Văn giúp Thầy định hướng tốt nhất để an cư lạc nghiệp.
Thời điểm đó, nước Mỹ đang ở trong khủng hoảng kinh tế từ tháng 7/1981 đến
tháng 11/1982, tỷ lệ thất nghiệp rất cao, ngay cả người bản xứ cũng lao đao.
Nên dù có Master Degree về Computer Science ở Mỹ, là một người tỵ nạn chân
ướt chân ráo, ông Phiên cũng không thể tìm được việc làm. Ông liên lạc với
thầy cũ ở UT Austin để nhờ thầy giúp tìm việc đúng với chuyên môn. Vị giáo
sư nhớ ngay người học trò cũ học giỏi, là Trung úy VNCH được gởi đi du học ở
Mỹ gần mười năm trước. Nên lời hồi đáp đầu tiên dành cho ông Phiên là
"Congratulation for reaching Freedom again". Giáo sư khuyên ông Phiên học
tiếp chương trình Tiến sĩ và xin cho ông Phiên vào làm Teaching
Assistant (vẫn được gọi tắt là TA) ở UT Austin, giúp chấm bài, và trả lời
các câu hỏi cho sinh viên đang học chương trình cử nhân.
Vốn quen "đường đi lối về" ở Austin trong mười tám tháng du học, ông
Phiên đưa gia đình về Austin vào giữa năm 1982. Hành trang của một gia
đình tỵ nạn ba người gọn gàng, chất chưa đầy một chiếc xe sedan cũ kỹ xuôi
về miền Đông, băng qua nửa chiều rộng ở phía Nam của Hoa kỳ, từ San
Diego (California) qua Austin (Texas).
Lương tháng của ông thời điểm đó vỏn vẹn bảy trăm dollars một tháng, không
nhiều, đủ cho cả gia đình sống chật vật. Nhưng ông Phiên vẫn hài lòng vì ông
vẫn lo được cho vợ, con đầy đủ cả vật chất lẫn tinh thần ở một xứ sở tự
do.
Ông Phiên xin vào học chương trình Tiến sĩ như lời khuyên của Thầy, trở lại
thời sinh viên, khi đã ngoài bốn mươi. Lần này dang dở không hoàn
thành, không phải vì ông không đủ trình độ theo học, cũng chẳng phải
vì ông bị trở ngại ngôn ngữ, mà vì bệnh lãng tai của ông (bắt đầu từ trại tù
Long Khánh) trở nặng hơn. Dù với hearing aids trợ giúp, ông vẫn không thể
nghe đầy đủ lời của giảng viên. Ông đành ngậm ngùi xếp lại thời đèn sách vào
quá khứ, và tập trung vào việc hội nhập nâng cao đời sống ở Mỹ.
Ngoài công việc Teaching Assistant, để tăng thêm thu nhập, ông Phiên xin dạy
thêm môn Computer Science bán thời gian ở trường một trường Community
College gần nhà.
Trong những giờ học sinh làm bài trong lớp, rảnh rỗi, nhìn xuống lớp học,
ông vẫn nhớ đến thời đi dạy của mình những ngày còn ở quê nhà. Quãng đời đi
dạy chỉ kéo dài chưa đến mười năm, nhưng học trò của ông Phiên rất đa dạng:
từ những cô cậu học trò đồng phục màu trắng tinh khôi ở năm cuối Trung học;
đến các sinh viên sĩ quan ở những năm đầu của tuổi hai mươi với quân phục
thẳng nếp; và bây giờ là học sinh nhiều màu da, tuổi tác chênh lệch, người
nhỏ nhất chưa đến hai mươi, người lớn nhất còn trọng tuổi hơn
ông.
Thời điểm đó (cuối thập niên 80 của thế kỷ hai mươi), computer dù chưa đi
đến từng nhà, nhưng trong các công sở, hầu hết các nhân viên đã làm việc
trên desktop computer, nên rất nhiều người đã được nơi làm việc gởi đi, hoặc
tự ghi tên đi học để có nhiều cơ hội thăng tiến hơn.
Sau khi trở thành công dân Hoa kỳ, thông thạo đời sống ở Mỹ, ông Phiên thi
vào làm cho Sở Thuế Hoa Kỳ (Internal Revenue Service), chi nhánh ở Austin,
Texas, để có được một khoản pension cao hơn lương hưu trí của người làm cho
công ty tư nhân.
Từ một quân nhân, rồi công chức thời chiến tranh của Việt Nam Cộng Hòa, ông
trở thành công chức của Mỹ với đời sống bình yên hơn ở một đất nước hòa
bình, tự do, và giàu có.
Công việc của ông là cùng với IT Department bảo trì và update các program
của Sở thuế IRS mỗi lần chính sách về thuế thay đổi. Thay đổi thường niên
diễn ra vào ngày đầu mỗi năm (January 1) khi mức miễn thuế thu nhập cá nhân tăng
lên theo mức độ lạm phát. Ngoài ra chính sách thuế cho các công ty, các
ngành nghề có thể điều chỉnh bất cứ lúc nào theo chính sách mới của liên
bang.
Làm với Chính phủ khá an nhàn, đó là công việc 8-5 (từ tám giờ sáng đến năm
giờ chiều, với đúng một tiếng ăn trưa) nên ông Phiên có nhiều thì giờ để nhớ
lại bạn bè, những cựu Sĩ quan QLVNCH vẫn còn đang sống đời tù không tội ở
quê nhà. Thỉnh thoảng, ông vẫn gởi tiền về giúp đỡ cho một số bạn bè vẫn
đang còn khốn khó ở quê nhà. "Bàn tay không thể che nổi mặt trời" nhưng tạo
ra được một bóng mát bình yên, dù nhỏ nhoi, cho bất kỳ ai đó cũng là một
niềm vui không nhỏ của cả người cho lẫn người nhận.
Công việc được trao đổi bằng email nhiều hơn là họp ở các conference room,
nên dù thính giác kém đi theo năm tháng, ông Phiên không hề gặp trở ngại. Làm
việc ở Sở Thuế ở Texas mười năm, đủ thời hạn để về hưu với khoản pension có
thể sống sung túc, ông Phiên xin nghỉ việc, để tìm thêm công việc làm ở các
công ty tư nhân. Thời điểm đó, ở Mỹ, computer đang chuyển tiếp từ desktop
sang laptop, và đã đến được từng cá nhân. Nên không khó để ông Phiên dù đã
mấp mé ở tuổi 60, một người có đủ cả bằng cấp và hơn mười năm làm việc trong
ngành computer, xin được việc đúng khả năng với thu nhập thích đáng.
Những lúc rảnh, ông còn tự mua bộ phận về để lắp ráp computer, vừa giải
trí, vừa bán cho những cửa tiệm nhỏ. Tiền thu được từ hobby này, ông dành để
giúp cho những người cơ nhỡ.
Quãng đời khá sung túc này kéo dài đúng bốn năm, theo chu kỳ kinh tế "what's
up, will be down", nước Mỹ lại bị rơi vào khủng hoảng kinh tế. Như một số
hãng điện tử tư nhân khác, nơi ông làm bị đóng cửa. Lúc đó, ông vừa tròn 65
tuổi, đủ tuổi để xin về hưu theo chính sách liên bang.
Sáu mươi lăm tuổi ở đầu thế kỷ 21, để mắt đến chế độ ăn uống như người Mỹ
vẫn nói "you are what you eat”, và chịu khó tập thể dục ít nhất năm ngày mỗi
tuần, người ta vẫn còn "trẻ" để làm việc. (Do vậy, Chính phủ Mỹ đã tăng tuổi
về hưu lên 67 cho tất cả những người sinh sau năm 1960). Sau một tháng
sống đời của một người về hưu (“golden time” như cách người Mỹ gọi thời gian
hưu trí), ông Phiên thấy thời gian dài vô tận. Biết người, biết ta, biết mình
không còn đầy đủ sức khỏe và sinh lực như thời trẻ, ông xin làm công việc
bán thời gian (part time job).
Ông Phiên trở lại "chốn xưa", nơi ông đã sống đời công chức bình an hơn
mười năm, Sở thuế Liên bang IRS, chi nhánh Austin (TX), xin làm part time.
Hiểu rõ năng lực, và tinh thần trách nhiệm của ông Phiên, bộ phận IT của Sở
thuế tiếp nhận ông Phiên làm bán thời gian ở đó đến năm tám mươi tuổi.
Điều đó làm cho "học trò của học trò" thầy Phiên, những người sinh sau năm
1960 thấy tuổi về hưu theo quy định hiện nay có thể được tăng thêm đến bảy
mươi vừa để khuyến khích người Mỹ ăn uống cẩn thận hơn, vừa để quỹ an sinh
xã hội không bị nguy cơ cạn kiệt khi tuổi thọ của con người ngày càng cao
hơn. Trong thực tế, ngày càng có nhiều người Mỹ dự tính làm đến năm
bảy mươi hay tám mươi tuổi.
Về hưu muộn, vừa thặng dư tiền bạc, theo kịp đà lạm phát, vừa thấy mình vẫn
còn trẻ, khỏe, để đóng góp cho xã hội. Và quan trọng hơn hết, để bận rộn, để
đỡ bị "hội chứng" bị bạc đãi của một thời gần hai mươi triệu người miền Nam
“cùng mang họ ngụy”, quay về ám ảnh. Hệ quả tốt nhất của bận rộn là không có
thì giờ để buồn, không có thì giờ để nghĩ ngợi lung tung, dễ bị vướng vào
tình trạng "nhàn cư vi bất thiện" hay "rảnh rỗi sinh nông nỗi"
Xin ghi lại một phần đời của một thầy giáo dạy Toán, một cựu Sĩ quan QLVNCH
để các thế hệ kế tiếp biết nền giáo dục nhân bản ngày xưa đã đào tạo được
vài thế hệ như thế. Ngày xưa thời Việt Nam Cộng Hòa, môn Công dân giáo dục
được dạy từ lớp mẫu giáo đến lớp mười một, môn Đức dục được dạy từ lớp một
đến lớp năm (elementary school).
Những bài học đạo đức, làm con hiếu, trò ngoan, công dân tốt, theo chúng tôi
đến suốt cuộc đời. Dù thế hệ chúng tôi chỉ được học Công dân giáo dục một
vài năm thì VNCH sụp đổ vì vận nước, nhưng từng trang sách "Tâm hồn
cao thượng" (dịch từ phiên bản tiếng Pháp "Les grand Coeurs" từ nguyên tác
tiếng Ý “Cuore” của Nhà Văn Edmondo De Amicis) đã đủ thời gian thấm sâu vào
tâm hồn chúng tôi, góp phần lớn tạo nên tư cách của chúng tôi ngày hôm nay.
|
Tác giả Edmondo De Amicis (1846-1908) / Dịch giả Hà Mai Anh (1905-1975) |
Gần nửa thế kỷ trôi qua, Sài gòn mất tên, nhiều thứ, buồn thay cũng bị bức
tử như số phận VNCH, nhưng ít nhất hai thế hệ đã được đào tạo từ nền giáo
dục Dân Tộc, Nhân Bản, và Khai Phóng của Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn. Và như
thế, Sài gòn, hòn ngọc viễn đông, vẫn còn trong trí tưởng của rất nhiều
người. Qua một đoạn đời của ông Phiên, cùng nhìn lại một trong những thành
công của nền giáo dục thời Việt Nam Cộng Hòa.
Rồi sẽ có một ngày các em được học Đức dục và Công dân giáo dục như
chúng tôi ngày còn thơ dại. Lúc đó, hẳn là đất nước sẽ tốt đẹp hơn, và cả
thế giới sẽ nhìn người Việt Nam như một khuôn mẫu của đạo đức, cần cù, tinh
thần trách nhiệm cao, luôn cầu tiến, học hỏi dù ở bất cứ tuổi nào.
Không bao giờ quá muộn để bắt đầu dạy Đức dục và Công dân Giáo dục từ lúc
các em bé bắt đầu đủ trí khôn. Các thế hệ đi trước phải cùng nhau thắp cho
các em, các cháu một ngọn đèn, như những câu thơ / nhạc trong bài "Hãy Thắp Cho Nhau Một Ngọn Đèn" của Nguyễn
Đình Toàn:
"Cố thắp cho em một ngọn đèn
Dù mệt nhoài trông ngóng
Để nhủ lòng gắng nuôi niềm tin"
Nhiều ngọn đèn, dù nhỏ, sẽ làm nên một nguồn ánh sáng lớn, soi sáng đêm đen,
đủ để đưa Việt Nam trở lại vị trí "minh châu trời Đông".
Tác giả: Nguyễn Trần Diệu Hương
June 2024
(Kính cảm ơn Thầy TP và Thầy NVP đã cung cấp)